Trần
Đình Tín.
Tháng
tư đã về! Miền Trung bắt đầu nắng. Bầu trời thì trong xanh mênh mông. Thỉnh thoảng
cũng có một vài ngày trời dìu dịu nhờ xuất hiện một vài đám mây trắng bồng bềnh
trôi kèm theo những cơn gió mát từ biển khơi thổi vào.
Tôi
không có thói quen uống café sáng. Hôm nay thức dậy, tự nhiên tôi muốn đến một
cái quán nào đó thật yên tĩnh để ngồi một mình.
Đường phố Qui Nhơn sáng sớm
như còn ngái ngủ. Khi tôi bước vào Tiếng Thời Gian dường như chỉ có một mình.
Tôi chọn một cái bàn nằm ở góc khuất.
Trong khi chờ… tôi lơ đễnh nhìn ra ngoài. Xe cộ đã bắt đầu qua lại. Học sinh
tung tăng đi học. Đã bao lâu rồi, tôi không còn nhớ một thời nào đó mình đã từng
là thầy giáo, đã từng đứng trên bục giảng và mùa khai trường cũng rộn ràng, nôn
nao đến trường dạy học.
Tôi còn nhớ! Năm 1974 tốt nghiệp Sư Phạm ra
trường đi dạy
học. Nhiệm sở của tôi lúc đó là Ty Giáo Dục Quảng Tín
nay thuộc tỉnh Quảng Nam .
Tôi dạy khoảng 6 tháng thì đất nước Giải Phóng. Tôi khăn gói trở về quê. Quê
tôi thuộc Bình Tường-Tây Sơn-Bình Định. Lúc đó tôi định tiếp tục dạy ở quê. Ở
đó sẽ thuận tiện hơn vì tôi có ông anh rễ là Chủ Tịch Xã. Nhưng suy nghĩ mãi có
nên ở lại quê hay xuống Qui Nhơn. Cuối cùng, tôi quyết định xuống Qui Nhơn dạy
học.
Ở Quy Nhơn, ngôi trường đầu
tiên tôi dạy là Trường Tiểu Học Mai Xuân Thưởng sau đổi tên là trường Cấp Một
Lê Lợi 1. Dạy đúng một niên khóa thì có quyết định chuyển sang Đảo Nhơn Châu rồi
sau đó đổi sang Nhơn Hải rồi đến Hải Giang qua Hải Minh về lại đất liền dạy Hải
Cảng cuối cùng là trường Tiểu Học Đống Đa.
Có lẽ tôi là một giáo viên
có được diễm phúc dạy nhiều trường nhất từ những hải đảo xa xôi đến các bán đảo
rồi đến các trường nội thành trong một thời gian ngắn nhất.
Năm 1990, tôi xin nghỉ dạy
vì rất nhiều lý do. Tôi đến Phòng Giáo Dục Qui Nhơn gặp thầy Thừa người phụ
trách Tổ Chức, để trình bày hoàn cảnh:
- Thưa thầy! Em công tác
trong ngành Giáo Dục tương đối cũng lâu rồi. Cuộc sống hiện nay gặp rất nhiều
khó khăn nên em không thể tiếp tục vì vậy em đến đây xin nghỉ dạy. Thầy giải
quyết lương bỗng của em thế nào?
-Chắc không có đồng nào đâu?
Vì đây là thầy tự nghỉ, không theo chế độ.
-Em biết vậy, nhưng thưa với
thầy là em đã phục vụ ngành giáo ngần ấy năm mà không giải quyết cho em được
vài tháng lương về mua mấy ký gạo ăn à!
-Khổ quá! Đã nói với thầy rồi,
không thể giải quyết được.
Tôi lủi
thủi đi về. Thầm tủi bản thân mình. Hai năm đèn sách học nghề thầy, mười sáu
năm đi dạy. Bây giờ về tay không!!!
Tiếng
hát Tuấn Ngọc vang lên trong giai điệu bài Bản Tình Cuối của Ngô Thụy Miên đã
ngắt nguồn suy nghĩ của tôi…
Không
biết từ bao giờ tôi rất thích bài hát này và cứ mỗi lần nghe là tôi lại nhớ những
tháng ngày học Sư Phạm Qui Nhơn… Thật sự mà nói ngày tháng đó sao mà êm đềm,
sao mà tâm hồn mình vui tươi, yêu đời đến kỳ lạ. Dưới mái trường Sư Phạm, tôi
được ấm áp vì có tình bè bạn, có những rung động êm dịu của con tim, có những
bài học làm người… mà bây giờ vẫn theo tôi đi suốt cuộc đời…
Tôi còn
nhớ! Năm nhất niên. Một hôm, trong giờ Giáo Dục Cộng Đồng do thầy Tính giảng dạy.
Thầy là người nỗi tiếng nghiêm khắc. Thầy phân công tôi và bạn Huỳnh Văn Triên
phụ trách việc thuyết trình. Không biết bài thuyết trình của hai đứa tôi nó dở
như thế nào? Hay là tại vì lần đầu trình bày trước lớp mà nhất là trước các cô
giáo sinh xinh đẹp nên tôi và Triên run lắm, cứ lập cà lập cập sao đó? Mà vừa kết
thúc, chúng tôi chưa kịp về chỗ thì thầy Tính phán một câu giữa lớp:
-Bài thuyết trình của trò
Tín và trò Triên không những không có điểm mà còn bị điểm trừ.
Lời phê
bình của thầy làm tôi lùng bùng lỗ tai và lảo đảo đi về chỗ ngồi. Từ đó tôi cứ
suy nghĩ mãi về lời thầy và nó trở thành một bài học nhớ đời. Nó đã giúp tôi nhận
thức và trách nhiệm khi làm bất cứ một công việc gì? Sau này tôi thường khuyên
bảo các con tôi rằng:
-Phàm làm bất cứ một điều gì? Một công
việc gì? Các con phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ, phải chú tâm làm cho thật tốt để
khỏi thua kém bạn bè.
Như
trên tôi đã nói, tôi dạy rất nhiều trường. Trường nào cũng để lại cho tôi một
vài kỷ niệm nho nhỏ thật đáng yêu nhưng nhớ nhất là trường Hải Giang thuộc bán
đảo Phương Mai.
Nói là
trường chứ thật ra đó chỉ là một túp lều thì đúng hơn. Học sinh thì lèo tèo mỗi
lớp vài ba em. Tôi dạy một lần ba lớp. Thật là tội nghiệp! Nói cho cùng thời
nào cũng vậy, vùng sâu, vùng xa, hải đảo… bao giờ cũng hẩm hiu cả.
Tôi tá
túc nhà ông trưởng thôn. Ông này thuộc diện khá nhất trong làng. Hàng tháng,
tôi chỉ nộp 13kg gạo thôi, thức ăn miễn phí. Gia đình có gì ăn nấy. Thực đơn rất
là đơn giản, những món như đậu phụng giã trộn chung với một ít muối, canh lá
giang nấu với cá chốt (một loại cá giống như cá trê nhưng nhỏ bằng lóng tay).
Sáng trưa chiều đều như thế!
Một
hôm, ông chủ nhà nói với tôi:
-Tôi thấy thầy ốm yếu, ăn uống
lại đạm bạc. Sợ thấy kham không nổi quá! Sức đâu mà dạy mà phụ giúp bà xã.
Dân biển là thế đó! Chất phác,
nghĩ sao nói vậy. Tôi nghĩ thầm: -Chắc ông không để ý chứ khi mới vào tá túc
nhà ông. Đến bữa cơm, ông bảo với tôi:
-Mời thầy ngồi ở đầu bàn để
mấy cháu nó xới cơm cho.
-Dạ, không sao, con ngồi đâu
cũng được.
Thời ấy, người dân họ sống rất
khó khăn. Làm ra hạt gạo tay lấm chân bùn! Nhưng tấm lòng họ rộng mở và tư tưởng
“Tôn sư trọng đạo” vẫn sâu đậm trong tâm tưởng của họ.
Thời gian sau, tôi tự động
ngồi sát nồi cơm để tự xới vì tôi ăn hoài mà không thấy no mà ngồi xa thì cứ
đưa cho mấy đứa cháu nó xới hoài thấy cũng kỳ. Chẳng thà anh nông dân ăn nhiều
không ai quở, còn mình là thầy giáo!!! Có hôm mấy đứa nhỏ thì thầm nói với ông
chủ nhà:
-Ông nội ơi! Sao thầy T..ăn
khỏe dữ?
-Không sao đâu con, ăn như vậy
thầy mới dạy tốt cho các con được.
Tôi nhẹ
cả người! Từ những bữa cơm đạm bạc như thế! Tôi sống những ngày tháng với tình
cảm của những phụ huynh chân chất đầy sự kính trọng thầy cô giáo.
Hồi ấy,
cuộc sống khó khăn, không ai nghĩ gì nhiều về mặt dinh dưỡng. Sau này tôi mới
nhận ra rằng, cá chốt nấu với lá giang là món ăn rẻ tiền mà vô cùng bổ dưỡng.
Cũng nhờ thế, nó giúp tôi có thể lực bền bĩ để vượt qua mọi công việc.
Sau khi từ biệt bục giảng trong sự luyến tiếc.
Vẫn biết rằng nghề dạy học là nghề cao quý nhưng tôi không thể trụ lại và đã chọn
công việc kinh doanh cho nên tôi phải quyết tâm làm thật tốt công việc và trời
đã không phụ lòng tôi.
Thời
gian vẫn trôi nhưng những kỷ niệm trong tôi không phai mờ theo năm tháng và có
lẽ nó theo tôi đến hết cuộc đời này.
Bây giờ
đã gần bốn mươi năm rồi mà mỗi khi ngồi với T.., với R.. nhắc lại những kỷ niệm
xưa khi còn đi học ở trường Sư Phạm Qui Nhơn. Tôi vẫn cứ ngỡ nó vừa mới xảy ra
đâu đây, vẫn hình dung những ánh mắt nụ cười trao nhau sao mà ấm áp, thân
thương đến lạ thường.
Thời gian như “Bóng câu qua
cửa sổ” , tôi thấy luyến tiếc thời tuổi trẻ của mình và cảm
thấy sợ! Đành rằng : Sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình nào ai tránh được?
Thôi thì:
Vật đổi, sao dời.
Đông
tàn, xuân sang.
Hình
hài thay đổi.
Còn
chi em ơi!
Chút
tình để nhớ!
Thương
hoài ngàn năm.
Qui Nhơn, tháng 04/2013.
Trần Đình Tín.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét