Gia đình Nhị Sáu

Gia đình Nhị Sáu

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

ĐỪNG ĐỂ BUỒN LÊN MẮT MẸ


                                
       Hàn Diệu Phương

 Kính dâng muôn ngàn bông hoa tươi thắm lên  má Diệp Quỳnh Anh, người mẹ tuyệt vời của chúng con.

Chiếc phi cơ của  American Airline rời phi đạo và từ từ cất cánh bay lên cao. Thành phố Toronto xinh đẹp với hồ rộng, cây cối xinh tươi, những tòa nhà cao ngất, xe cộ dập dìu bây giờ chỉ còn là những chấm li ti nhỏ xíu… rồi biến mất. Trước mắt tôi là những tảng mây trắng trôi bồng bềnh trên bầu trời xanh trông tuyệt đẹp. Có đám mây nhìn như những ngôi nhà, những bức tranh vân cẩu, như những đóa hoa trắng trong  vườn nhà tôi …Tất cả đều trắng xóa như tuyết, như mái tóc của má tôi.
Mở Laptop tôi thấy một email mới có những câu thơ :

“ Nhìn bóng phi cơ lẫn bóng chiều ,
Chơi vơi hồn mộng bến cô liêu…
Phương ơi anh nhớ em ghê lắm !
Dù chỉ xa nhau mới một giờ…

À ! thì ra ông xã tôi sửa thơ của ai đó để tặng tôi mỗi lần gấp quá chưa làm thơ kịp. Cưới nhau đã hơn ba mươi mấy năm rồi mà mỗi lần xa nhau anh đều lưu luyến. Lần này tôi chỉ qua New York để dự sinh nhật 83 tuổi của má tôi có một tuần, mà anh ấy cũng nhớ thương. Mỉm cười  trong hạnh phúc đang có và nghĩ đến cuộc đời khổ hạnh của má. Tôi thương má quá đi thôi !. Đóng máy lại, tiếp tục nhìn mây trôi lờ lững tôi thả hồn về dĩ vãng, thuở tôi còn độc thân sống với ba má ở quê nhà.

Sinh ra tại Mỹ Tài, Phù Mỹ nhưng thuở ấu thơ và lớn lên tôi sống ở Qui Nhơn nhiều nhất. Thành phố biển gắn liền với tôi nhiều kỷ niệm với những lời ru,  à ơi ngọt ngào của mẹ vào những buổi tối hay những buổi trưa hè. Những sáng tắm biển với người thân. Buổi trưa hay giờ ra chơi thơ thẩn cùng bạn học tán dóc, ăn quà vặt khi còn học Nữ Trung học, Sư Phạm Qui nhơn. Những lần cúp cua giờ Anh văn đi xem phim miễn phí khi rạp cine Kim Khánh của cậu tôi có phim hay. Những buổi chiều cùng đồng nghiệp, học trò trường Trần Hưng Đạo đạp xe đạp đi vòng quanh thành phố hóng gió, leo núi hát ca , tâm sự... Đi ăn kem “chùa” ở tiệm Thanh Ký của chị họ tôi , hay uống nước đậu ăn bánh nướng (pateschaud) gần trường Bồ Đề. Thỉnh thoảng đi xa hơn một chút để ăn nem chợ Huyện. Đi du ngoạn ở tu viện Nguyên Thiều... Còn nhiều kỷ niệm ở nhiều nơi lắm kể sao cho hết ?...

Qui nhơn trước năm 1975 có những con đường mang tên các vị vua, các anh hùng của nước Việt như: đường Gia Long, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Phan Bội Châu , … và Võ Tánh là một con đường tương đối rộng rãi và đẹp nhất, nhì thành phố Qui Nhơn với hàng cây xanh mướt hai bên đường. Trên con đường này ở số 31 Võ Tánh gần khu Hai ,đường Nguyễn Huệ là ngôi nhà thân yêu mà má tôi đã mua để mấy anh em chúng tôi có thể đi học hai trường Hoa duy nhất trong thị xã, đó là trường Sùng Nhơn và Triều Thuận.( Chỉ trừ tôi là không học chữ Hoa). Đây là nơi có nhiều kỷ niệm thân thương của tôi với gia đình và nhất là với … má tôi.

Nếu có ai hỏi tôi : “Trên đời này  thương ai nhất ?” Tôi sẽ không ngần ngại trả lời, người tôi thương và kính trọng nhất là má tôi – “Người Mẹ Tuyệt Vời “của mười đứa chúng tôi :Hàn Lộc Định, Diệu Phương, Thành Định, Chí Định, Vinh Định, Ngọc Dung, Phương Thảo,Thùy Linh, Mai Chi và Huê Định.

Đã từ lâu, tâm nguyện của tôi và cũng là của anh chị em tôi là sẽ viết một bài viết, làm một DVD ngắn về Má tôi và cuộc đời về cuộc hành trình gian khổ của một “Single mother “ (Người Mẹ không chồng) đem 10 đứa con đến nơi đất khách lập nghiệp. Những khó khăn gian khổ ban đầu của một người vợ không chồng bên cạnh nuôi 10 đứa con nơi xứ lạ, quê người.
Tôi rất muốn làm điều đó để tặng má vào ngày sinh nhật, ngày lễ Mẹ hay mỗi mùa báo hiếu Vu Lan. Nhưng ngày tháng cứ trôi đi. Xuân về, Hạ đến, Thu đi , Đông tàn, rồi năm này qua năm khác, mãi vật lộn những khó khăn để mưu sinh ở xứ người nên tôi không có dịp. Nay thấy má đã già, không rành viết văn nhưng tôi vẫn cố gắng viết tặng má trong lúc người còn minh mẫn mà đọc được.  

Nghe ngoại kể lại thì lúc còn trẻ má tôi là Hoa khôi ở An Thái, Bình Định. Má có vóc dáng mảnh mai, tay chân mềm mại, mủm mỉm, nước da trắng trẻo và khuôn mặt thanh tú, dịu hiền, không đẹp sắc sảo như dì Lạc tôi. Bây giờ đã hơn tám “bó” má cũng còn mặn mà lắm. Thời đó có rất nhiều chàng trai yêu mến theo đuổi má và má có thương một người trong số đó mà ngoại không chịu gả vì chê người đó nghèo và ép gả má cho ba, để có thể giúp đỡ cho ngoại và các cậu vì sau khi ông ngoại mất nhà rất nghèo.
Má tuyệt thực , giả chết với sự giúp đỡ của cậu mợ Đức tôi nhưng cũng không che mắt và thắng được ngoại và phải ưng ba. Dù sống với ba không có tình yêu nhưng lúc nào Má cũng chung thủy và làm đầy đủ bổn phận của một người vợ, người mẹ hiền.
 Khi má dẫn chúng tôi ra nước ngoài (ba tôi không đi vì lý do riêng). Vài năm thì nghe tin ba mất ở VN nhưng má vẫn ở vậy thờ ba cho đến giờ ( dù khi mới qua Mỹ nhiều người thương cái nết na của má và muốn cưới mà má không chịu vì thương con)…
Lúc còn sống ông bà nội và ba tôi vẫn khen má tôi là người “Con Dâu Tốt, Người Vợ tuyệt vời”. Chúng tôi, các con của má cũng nhận thấy quá đúng, không ai thương con, hi sinh nhiều cho con như má tôi …Dùng danh vị :” Người Mẹ Tuyệt Vời “cho Má tôi không sai chút nào.Tôi luôn tự hào vì mẹ tôi mà nói : “ Đi khắp thế gian không ai tốt bằng… Mẹ tôi ”

“Một mình, mẹ làm tất cả
Bao nhiêu công việc trong nhà
Chịu đựng, âm thầm…vất vả
Không hề than thở kêu ca” *
                            
Làm mẹ của 13 đứa con, má tôi cực khổ không bút nào tả xiết. Là đứa con thứ nhì nhưng là con gái lớn nhất trong gia đình,( em gái kế Ngọc Dung cách tôi một con giáp) nên tôi đã thấy cái khổ của má và giúp má rất nhiều trong việc chăm sóc các em. Nuôi má trong bệnh viện mỗi lần má sinh em bé mới .
Gia đình tôi có hai tiệm thuốc Bắc Dũ Hòa, một ở Phù Mỹ do ba tôi làm chủ, tiệm thứ hai ở Qui Nhơn do má tôi trông coi. Ngoài việc đứng bán tiệm, cân thuốc, làm thuốc má tôi còn phải làm đầy đủ bổn phận của một người mẹ như chăm sóc con, đi chợ, nấu ăn, giặt giũ. Mỗi buổi sáng sớm, má chùi tro hàng đống chén trà dơ dùng để mời khách uống. Má nấu thức ăn sáng cho cả nhà, đánh thức các em dậy, rửa mặt, thay quần áo, cho các em ăn sáng. Buổi trưa má đi chợ, nấu ăn trưa cho cả nhà trên 15 người. Chiều về cũng làm những việc tương tự nhưng thêm là phải sắp hàng hơn chục đứa con dùng gàu múc nước giếng tắm, kỳ cọ từng đứa, thay quần áo cho các con. Tối đến má ru các em ngủ.  Hàng ngày, má giặt mấy thau quần áo dơ to tổ bố bằng nước giếng xách, chưa kể giặt thêm thau tả của một, hai em nhỏ nhất. Thời đó đâu có  máy giặt hay tả diaper dùng một lần rồi bỏ như bây giờ. Việt Nam mình khí hậu nóng bức, bụi bặm, các em tôi chơi vọc đất cát rất dơ nên mỗi lần giặt áo cho các em ngoài bâu áo, cổ áo, má và tôi phải chà mạnh tay áo muốn “gãy” tay mới sạch. Nấu ăn cho vừa miệng ba và các con, hay giặt đồ cho sạch thường phải chính má hay tôi làm chứ người làm không bao giờ làm tốt.  Ngọc Dung là đứa em cưng mà tôi cầu trời phật (?) mới có được vì trước đó tôi có 5 anh em trai mà chưa có em gái để chơi chung. Dung bị bệnh ghẻ đầy mình chữa hoài không hết, má  xức thuốc cho nó mỗi ngày và chăm sóc nó nhiều. Phương Thảo bị bếp dầu đổ phựt cháy phỏng nặng má chăm sóc, bôi thuốc rất nhiều ngày Những dịp nhà có giỗ, má nấu nhiều món ăn đãi họ hàng, Tết làm đủ thứ rim mứt, bánh trái , thịt bò, heo, gà, vịt để đãi khách hàng, bà con trong tháng Tết (vì nhà bán thuốc Bắc rất đông khách đến thăm) Ba má thích ăn bánh in nên Tết nào má và tôi cũng làm thật nhiều chứa trong mấy thùng dầu hỏa. Thịt kho tàu, thịt thưng đủ loại 4, 5 chảo lớn. Bánh chưng, bánh tét đầy nhà .Tôi nhớ nhất là những kỷ niệm với má khi những ngày cận Tết ngồi canh nồi bánh chưng, bánh tét nghe má kể  các chuyện cổ tích VN ,chuyện Tàu như chuyện: Ông Táo , bà Táo, sự tích Bánh dày, Bánh chưng, Hoa Mộc Lan, Võ Tắc Thiên, Hai Bà Trưng, Bà Triệu ,Trọng Thủy, Mỵ Châu, Lạc Long Quân và bà Âu cơ sinh ra 100 trứng v.v…( Sau này nhờ má thuyết phục ba, tôi mới được làm cô giáo Việt và làm dâu “ Con Rồng cháu Tiên).
Má có cả một kho tàng cổ tích mà kể hoài không hết. Là người Hoa má rất thích đọc sách Hoa lẫn sách Việt, chắc nhờ vậy má giỏi tiếng Việt chăng ? Má không những giúp chúng tôi làm bài ở trường mỗi ngày mà còn là thầy dạy ba tôi đọc thông, viết thạo Việt Ngữ nữa. Ngoài nói và viết tiếng Hoa, tiếng Việt rành, má còn biết tiếng Pháp và sau này má còn giỏi tiếng Anh nữa vì mỗi ngày, nhiều năm phải đi học Anh ngữ mới được chính phủ Mỹ trợ cấp  tiền nuôi con...

Thấy má quá vất vả nên tôi giúp má mọi công việc trong gia đình. Chính nhờ được giúp má, được tôi luyện trong một môi trường nhiều anh em nên sau này tôi rất thích trẻ em, làm việc với trẻ em và trở thành một người vợ, một cô giáo tốt, dạy giỏi ở Canada, được  hiệu trưởng các trường, phụ huynh và các em học sinh  mến phục…

Má thường dạy năm đứa con gái chúng tôi : Phụ nữ phải : Công- Dung- Ngôn – Hạnh…Chung thủy…
Má dạy chúng tôi nhiều điều lắm nhất là chuyện tìm hiểu nam nữ trong việc xây dựng gia đình nên sau này các chị em tôi từ Hàn Ngọc Dung, Phương Thảo, Thùy Linh, Mai Chi  và tôi đứa nào cũng dè dặt  tìm hiểu đối tượng ít nhất là 7 năm  trở lên. ( Riêng tôi và ông xã hơn 11 năm mới cưới nhau) Năm người con gái của má đều có chồng rất hạnh phúc. Không biết có phải nhờ chúng tôi áp dụng đúng lời má dạy hay số phần của chúng tôi may mắn ???

Ai nuôi con cũng biết, nếu con khỏe mạnh thì còn đỡ nếu con tật nguyền hay bệnh hoạn, những khi “ trái nắng, trở trời “ thì cha mẹ khổ gấp bội.
“Thương con thao thức bao đêm trường , con đà yên giấc mẹ hiền vui sướng biết bao…”  bài Lòng mẹ của Y Vân có nhiều câu thật đúng với lòng thương con của má tôi. Mỗi lần các em đau má phải thức trắng đêm ngồi bên cạnh để chăm sóc, luôn tay quạt, hát ru con ngủ. Má hát cả tiếng Hoa lẫn tiếng Việt và giọng hát rất ngọt ngào.
Má thường hát bài : Cánh hồng Trung Quốc : Kìa một nàng Trung Hoa , răng trắng tinh như là ngà…
Bài: Lòng mẹ, Ơn nghĩa sinh thành ,Khúc ca ngày mùa …
Má hay đọc sách cho chúng tôi nghe khi ngủ ,hay ầu ơ bài : “Chiều chiều ra đứng ngõ sau , ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều…”
Má khổ và đau buồn nhiều nhất là giai đoạn những đứa em mủm mỉm , xinh đẹp như thiên thần của tôi : em Dũng, em Hạnh, em Út  mất vì bệnh nặng không cứu chữa được, Má như đứt đi từng đoạn ruột, ốm đi hàng chục cân dạo đó.

Làm mẹ ai cũng trải qua giai đoạn mang thai, sinh con đau biết là chừng nào. Sinh hai đứa con, tôi đều được có chồng bên cạnh chia xẻ giây phút đó, nhưng tôi chưa bao giờ tôi thấy ba kề cận bên má lúc sanh con. Ít nhất là 7 lần, người dẫn má đi sinh em và nuôi má khi nằm ở bệnh viện, là tôi . Tôi còn nhớ khi má sinh Ngọc Dung đứa em gái đầu tiên của tôi vào đêm trăng mười sáu. Dưới ánh trăng tròn vành vạnh, tôi dắt má đi qua đi lại trước sân nhà hàng trăm lần vì má đau bụng không thể nằm hay ngồi yên. Không dẫn đi thì phải vuốt lưng cho má đỡ đau hàng chục giờ. Nhiều khi đau quá quên, má bấm tay tôi muốn chảy máu mà tôi ráng chịu đau không dám rên… Má rất thích có con trai. Mỗi lần ngồi bên giường sinh, phụ má “rặn “ nhìn má mồ hôi nhễ nhại, mắt má đầm đìa nước mắt vì đau, tôi thấy tội má quá, khóc theo và tự nhủ mai mốt lớn lên không thèm lấy chồng, sinh con.
 Không biết tại sao má thích có con trai hơn con gái (dù ba má có đến 8 trai, 5 gái không kể 1 em trai sinh non) Mỗi lần má sinh mệt muốn đứt hơi mà nghe tiếng khóc đầu tiên của em bé má đều ráng ngóc đầu lên nhìn và hỏi : “ con trai hay con gái ?“ nếu thấy “ thằng cu” má cười mãn nguyện nếu em gái má nằm im. Có lẽ má sợ sinh con gái nó sẽ khổ như mình chăng !?
            Ba má tôi có quá nhiều con, trái lại cô ba, chị kề ba tôi không  có đứa con nào. Không biết bao nhiêu lần cô dượng tôi năn nỉ má cho cô bớt vài đứa cho nhà cô đỡ hiu quạnh và thừa kế gia tài của cô dượng khi về già, nhưng má thương con nhất định không chia cho cô đứa nào. Phải chi cô nghèo hay ở xa, má sợ con nghèo đói thì không nói gì, đằng này nhà cô cũng bán thuốc Bắc, giàu hơn nhà tôi và cô cũng ở cùng một con đường, chỉ cách nhà tôi vài chục căn.
Khổ về con chưa đủ ,má tôi còn khổ vì em chồng. Về làm dâu ông bà nội không lâu má tôi phải nuôi bốn người em chồng: Cô Thâu, cô Phụng, cô Hiệp, chú Thọ vì ông bà mất sớm. Nghe mọi người kể lúc đó chú Thọ, chú út của tôi còn nhỏ lắm, chú thường nằm chung nôi với anh Lộc, anh đầu của tôi. Thương và chăm sóc em chồng nhỏ như con ruột, nên chú thương chị dâu cũng như mẹ. Má tôi phải chịu không biết bao nhiêu khổ nhọc, để cùng ba tôi nuôi bầy em chồng khôn lớn  rồi gả chồng cho từng người. Những tưởng gả chồng xong cho các cô là hết bổn phận để có thể rảnh tay nuôi bầy con đông đảo của chính mình. Không ngờ các cô lấy chồng nghèo và làm ăn cứ thất bại liên miên nên má tôi phải giúp các cô từ lần này đến lần khác. Bực mình, có khi các cô đến nhà xin xỏ, ba đuổi cửa trước thì má tôi  rước vào cửa sau, dấu ba  tôi giúp các cô vốn liếng làm ăn, cho gạo, tiền. Má đối xử tốt với tất cả hàng xóm, láng giềng và bên chồng nhưng cũng không tránh khỏi bị một vài em chồng nhỏ to nói xấu, hành hạ, như cô Phụng. Má không để bụng sau này qua Mỹ dù ban đầu không dư giả, má cũng thường xuyên gởi tiền về cho cô, cho đến khi cô mất cách đây mấy năm. Có điều má tôi cũng được an ủi phần nào là cô Hiệp và chú Út tôi biết ơn nên thương, không hùa theo các chị ăn hiếp má, và cô Hiệp có giúp đỡ má chăm sóc chúng tôi khi cô còn độc thân.
Là người Hải Nam,Trung Hoa ba má tôi sinh sống bằng nghề bán thuốc Bắc cũng khá giả nhưng sau năm 1975  trong việc đánh đổ “ Tư sản mại bản “ ba phải ở tù …má lại phải lặn lội thân cò nuôi chồng và lo cho chồng …
Má muốn dẫn con ra nước ngoài với cậu, chú  tôi ở New York nhưng ba không bằng lòng. Không thể lay chuyển được ba, nghĩ đến tương lai mù mịt của các con má tôi âm thầm một mình suy tính, nhưng làm cách nào? Làm sao có đủ vàng để lo đi ? và làm sao má dẫn hết một bầy con đông đảo như gia đình tôi đi? Đó là một bài toán khó má không làm sao giải được? Má tôi  càng ngày một gầy hơn và nếp nhăn trên trán mỗi ngày một sâu hơn. Chúng tôi sống lây lất qua ngày trong vô vọng như bao nhiêu người Việt khác lúc bấy giờ.

Rồi năm 1978 chính quyền cho phép người Hoa chúng tôi ra đi . Má tôi lại phải một phen cực khổ đi vay mượn tất cả bà con, bạn bè, bán hết tất cả những gì có trong nhà để có thể đóng đủ vàng cho tất cả gia đình 14  người vượt biển bằng tàu sau khi đã hiến hai căn nhà . Ra đi mà má và chúng tôi  dầm dề nước mắt “ Thôi nhé giã từ ba ! giã từ thành phố biển QN, giã từ trường cũ với một thời áo trắng mộng mơ, bạn bè, học trò , tình yêu đầu đời trẻ dại, giã từ quê hương yêu dấu”, tôi thầm thì trong màn lệ. Ngước mắt nhìn trời cao và nước biển mênh mông tôi nhớ lại một bài thơ ông xã tôi đã tặng :
Nơi chân trời mây bạc,
Lơ lững cánh chim bay.
Đơn chiếc bay về đâu ?
Về chân trời góc bể ?
Nơi góc bể mờ sương
Một con thuyền lơ lững,
Đang trôi dạt mông lung
Trong buồng sương buốt lạnh
…………………………….
Với nỗi lòng xa cố quốc…

Má và tôi thẫn thờ, lo lắng: thuyền chúng tôi có đến nơi được an toàn không? có bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp không? có bị sóng gió đánh tan tành không? Chiếc thuyền nhỏ mong manh của chúng tôi thay vì chứa năm, ba chục người họ nhét đến 154 người. Thuyền khởi hành vào tháng 9 mùa biển động, bão lớn chúng tôi gặp nhiều hiểm nguy trùng trùng trong suốt cuộc hành trình 30 ngày thay vì 3 ngày như dự định. Thức ăn, nước uống mang theo chỉ đủ 3 ngày hay nhiều lắm là 1 tuần. Ai trên thuyền cũng bị say sóng ói mửa tới mật xanh, mật vàng nhưng Má và tôi vẫn phải gắng gượng chăm sóc các em, đói cơm , khát nước má phải ráng nhịn cho các con, hi sinh mọi thứ để tất cả các con được an toàn. Trải qua bao nhiêu sóng gió hiểm nguy, may mắn thay cuối cùng má đã bảo bọc cho các em tôi qua được Hồng Kông rồi định cư ở New York dưới sự bảo lãnh của cậu tôi. Phần tôi tuy chung một danh sách bão lãnh với má và các em nhưng số phận đưa đẩy qua Canada thay vì Mỹ…

          “ Mẹ tôi dạn dày mưa nắng
           Quên mình trong bể trầm luân
           Vun đắp bầy con khôn lớn
           Mặc tình bao nỗi gian truân.” *
                                             
Một mình không biết một chữ tiếng nước người, nuôi một bầy con dại ở New York city, một thành phố văn minh bậc nhất nhì ở Bắc Mỹ nhưng cũng nổi tiếng là  hỗn tạp, nhiều tội ác, trộm cắp… Má tôi đã chịu không biết bao nhiêu gian lao, khổ nhọc lúc ban đầu để nuôi con. Cánh tay phải của má là tôi lại lưu lạc ở Canada thay vì ở bên cạnh để chia sớt với người. Ba năm đầu chưa nhập tịch Canada tôi không thể qua thăm. Tôi thương nhớ má và các em vô vàn. Đêm nào cũng thao thức, mỗi lần ăn cơm là chan nước mắt khi nhớ lại những bữa ăn đông đảo, vui nhộn, đầm ấm ngày xưa. Mỗi lần phải lặn lội trong tuyết để gởi con trước khi  đi làm hay dắt con đi học tôi lại nhớ má và không biết má có chịu nổi cái lạnh âm 20, 30 độ vào mùa Đông bên đó không ? Làm sao buổi sáng hay chiều má có thể đưa đón hàng chục đứa em đi học ? Ai sẽ giúp các em làm homework ở nhà nếu má không biết tiếng Anh ? Ngọc Dung thường gởi thư “báo cáo” tình hình bên NY nếu tôi không phôn qua. Nhiều lần nó tâm sự : “Em nản quá chị P. ơi ! ngày nào vô lớp học em cũng không hiểu cô, thầy dạy nói gì ? nên em viết thư cho chị thay vì viết bài.  Tháng này, tháng kia sinh nhật của Thảo, của Linh,  má không có tiền mua quà cho nó nên má phải nhận quần áo về cắt chỉ để thêm thu nhập”… Khi đã chính thức  trở thành công dân Gia Nã Đại việc đầu tiên của tôi là bay qua thăm má và các em. Tôi không cầm được nước mắt khi thấy má mỗi tối phải thức thật khuya đến 1, 2 giờ sáng  ngồi ráp bông tai , đập, ráp ống son môi mỗi thùng hàng ngàn cái mà chỉ được trả 10, 20 đô…
Thật ra là “single mother” má tôi được chính phủ cho tiền ăn, tiền nhà và quần áo cũ của các cơ quan từ thiện cũng tạm đủ ăn, đủ mặc nhưng muốn có thêm tiền giúp đỡ các cô, bà con ở quê nhà , hoặc muốn sắm thêm cái áo ấm, đôi giày bốt mới chống lạnh … cho các con má tôi phải nhận đồ thêm ở các hãng xưởng về nhà làm với giá rất rẻ mạt…Mỗi lần má hay các em bệnh hoạn phải đi bác sĩ, phải liên lạc với nhà trường vì việc học của các con, vì các em bị tụi Mỹ kỳ thị, hiếp đáp má tôi rất khổ tâm vì không rành tiếng Anh…Bên cạnh má còn rất cô đơn và thiếu thốn tình yêu của ba vì không liên lạc với chồng…
             Đó chỉ là một vài cái khổ mà tôi đã thấy mỗi lần viếng thăm, má còn khổ và hi sinh cho con nhiều thứ nữa mà ở xa tôi không biết được, mà có biết cũng làm sao giúp được vì cuộc đời lưu vong của tôi cũng khốn khổ gần như má.

  Vậy mà, thời gian như một phép lạ ! Má tôi đã vượt qua mọi khó khăn, trở ngại nuôi tất cả các con khôn lớn thành tài, trở thành những công dân tốt của nước  Mỹ giữa thành phố New York, ở khu da đen, nơi nổi tiếng về đầu trộm, đuôi cướp, sì ke ma túy, đĩ điếm …gần như bậc nhất trên thế giới. Hai đứa em nhỏ nhất lúc ra đi mới 3 , 4 tuổi là hai em mà má lo cho tương lai tụi nó nhất là  Mai Chi đã thành Dược sĩ, còn út Huê Định đã trở thành Kiến trúc sư.
“Lòng mẹ bao la bát ngát,
Thương con rộng tựa biển khơi.
Ơn dày biết sao đền đáp ?
Đêm ngày ray rức trong tôi.” *
                                                         
    Chúng tôi có được ngày hôm nay là nhờ công ơn của má. Chúng con rất biết ơn, kính yêu má ! Cám ơn má ,“ Người Mẹ Tuyệt Vời Của chúng con’”
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu,
Công cha như núi Thái sơn , nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”
Bài hát ” Ơn nghĩa sinh thành” năm nao má tôi hát cho chúng tôi nghe vẫn còn vang vọng bên tai tôi. Mỗi năm khi dạy các Lớp Việt Ngữ ở Canada về chủ đề: “Gia đình”, chủ đề : “Mẹ”, tôi vẫn thường dạy học trò và con tôi hát bài này khi có dịp…

Tiếng người tiếp viên hàng không loan báo phi cơ sắp hạ cánh xuống phi trường LaGuardia, New York đưa tôi về thực tại… Nhìn những đám mây trắng, bạc trở nên vàng dưới ánh nắng chiều, rồi trở thành xám, đen trong hoàng hôn, trong đêm tối theo lẽ tuần hoàn của trời đất . Đời người cũng vậy : sinh, lão, bệnh, rồi...tử. Vẫn biết thế nhưng sao tôi vẫn muốn má sống hoài với chúng tôi. Mỗi lần lễ Vu Lan các chùa bên này tổ chức tôi thường đưa các con tham dự và sung sướng được cài một bông màu hồng lên áo.( tôi vẫn còn giữ hơn ba chục hoa vải lẫn hoa thật đã khô) .Bây giờ má tôi đã bắt đầu khó tánh và hay mè nheo con cái vì lẫn (?) vì tủi phận mình, vì các con đã đủ lông cánh lần lượt bỏ mẹ bay đi... Chợt nghĩ đến tuổi già, bệnh hoạn của má mà tôi lo lắng …

“ Mẹ già như chuối chín cây,
Gió lay Mẹ rụng , con phải mồ  côi.”

Các em ơi ! Hãy nhớ mẹ đã ban cho chúng ta tấm hình hài này, đã hi sinh rất nhiều cho chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn với muôn vàn khổ cực… Hãy thương mẹ, hãy ôm mẹ và nói thương mẹ như khi ta còn bé. Đừng trách mẹ khi mẹ già lú lẫn, làm phiền hay trách móc các em những điều gì đó không đúng. Hãy làm những gì có thể làm được khi mẹ  còn sống. Đừng để người mất đi rồi mới hối tiếc thì đã muộn. Lúc đó, mâm cao, cỗ đầy cúng kiến thì cũng chẳng ích lợi gì…
Xin mượn câu cuối của một bài thơ mà tôi đã đọc được đâu đó trong một ngôi chùa để kết thúc bài viết, để nhắn nhủ các anh em tôi và những ai còn mẹ :

Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc ,
Đừng để buồn  lên mắt Mẹ nghe không !”


                                                                        Toronto , Canada mùa Vu Lan 2012
                                                                         Hàn Diệu Phương

* Mẹ tôi – Thầy Trần Văn Dật
 

Một số hình ảnh DP chụp với Mẹ lúc ở quê nhà , với Mẹ và các anh em ở đảoHồng Kong 1978, với ông xã và con trai 1979 ( trại tị nạn ) và  nước ngoài  …       

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét